Thưa ngài chủ toạ, Thưa các Quý vị, Được hội ngộ cùng các Quý vị ngày hôm nay tại Hội đồng Ấn Độ về các vấn đề thế giới - một tổ chức có uy tín rất cao - là niềm vinh hạnh lớn của tôi. Đứng tại nơi đây làm tôi nhớ đến cố Thủ tướng Jawaharlal Nehru, người đã lập ra tòa nhà này, và cố chủ toạ Hồ Chí Minh, người đã từng đến đây trong chuyến thăm Ấn Độ cách đây vài thập kỷ. Bác Hồ và Cha Nehru, hai nhà sáng lập vĩ đại của dân tộc Việt Nam và Ấn Độ, đã đặt nên nền tảng chung giữa hai nước chúng ta. Tình bạn rét mướt giữa hai cá nhân họ đích thực đã góp phần củng cố kiên cố quan hệ giữa hai dân tộc chúng ta. Lúc sinh thời, cố Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh những đóng góp của Ấn Độ - một dân tộc độc lập và mạnh mẽ - đối với hòa bình ở châu Á và trên thế giới. Tuốt luốt những lời nói của Người cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Tôi xin cảm ơn Đại sứ Rajiv Bhatia và Hội đồng Ấn Độ về các vấn đề thế giới vì đã góp phần tăng cường hội thoại và hiểu biết giữa hai nước chúng ta. Những vậy chung giữa các bạn với Học viện Ngoại giao Việt Nam đã làm nên cuộc Hội thảo với chủ đề “Quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Ấn Độ: Những định hướng tương lai” vào tháng 7 năm ngoái. Tôi được biết cuộc Hội thảo đã rất thành công.
Thưa các Quý vị, việc tôi được mời tới nói chuyện với các bạn ngày bữa nay đã cho thấy sự quan hoài của các bạn đối với Việt Nam, đối với mối quan hệ song phương của chúng ta cũng như đối với những gì hai nước chúng ta có thể cùng nhau đạt được trong bối cảnh toàn cầu và khu vực đang thay đổi. Nhân này, tôi muốn cùng san sẻ với các bạn một vài suy nghĩ về sự vận động của thế giới và khu vực ta đang sống, về vai trò của Ấn Độ, ASEAN và Việt Nam, và đưa ra một số đề xuất nhằm phát triển hơn nữa mối quan hệ đối tác chiến lược giữa chúng ta. 1.Bối cảnh thế giới và khu vực Trước hết, tôi thường tự hỏi rằng chúng ta đang sống trong một thế giới như thế nào? Những năm vừa qua cho tôi thấy rằng chúng ta đang đứng trước một thế giới với những thay đổi lớn lao. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã mang lại những chuyển dịch mang tính cơ cấu trong nền kinh tế thế giới, dịch chuyển về mô hình và chiến lược tăng trưởng, dịch chuyển khuynh hướng sản xuất và tiêu thụ, chuyển dịch các thị trường tài chính, và sự gia tăng kết nối giữa các nền kinh tế cũng như giữa các khu vực. Tác động trực tiếp của những đổi thay này là sự chuyển dịch giữa các trọng điểm quyền lực. Chúng ta đã chứng kiến trọng điểm quyền lực đang từng bước chuyển dịch từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam, từ các nước phát triển sang thế giới đang phát triển. Trong khi những cường quốc công nghiệp hàng đầu thế giới phải đối mặt với những khó khăn to lớn thì những nền kinh tế đang nổi lên lại đang trên đà phát triển tưởng như thường gì có thể cản ngăn được. Chỉ tính trong 5 năm trở lại đây, đã có những mốc đổi thay lớn trong hạng mục phát triển kinh tế thế giới. Năm 2010, Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, Ấn Độ trở nên nền kinh tế đứng thứ 9 thế giới vào năm 2011 và Brazil đã đuổi kịp Anh về phát triển kinh tế. Từ năm 2001 đến năm 2012, quy mô kinh tế của BRICS đã mở mang thêm gấp 6 lần, trong khi vơ nền kinh tế thế giới tăng trưởng gấp đôi. BRICS đang ngày càng có tiếng nói lớn hơn trong nền kinh tế toàn cầu, trong quan hệ quốc tế và trong cấu trúc an ninh thế giới. Vai trò điều phối kinh tế của G20 cũng là một thực tại đã được nhấn. Những nền kinh tế đang nổi lên đã làm thay đổi một cách cơ bản bản chất của chính trị quyền lực. Mối quan hệ giữa các cường quốc cốt lõi không còn là lãnh địa của riêng những nhà nước công nghiệp hàng đầu nữa. Trong bối cảnh đó, châu Á của chúng ta hiện đang trở thành trung tâm, động lực của tăng trưởng và phục hồi kinh tế thế giới. Trong vài năm qua, dù rằng kinh tế toàn cầu đi xuống, nhưng các nền kinh tế châu Á vẫn tăng trưởng mạnh mẽ. Năm ngoái, mức tăng trưởng đạt 7,6%. Một đặc điểm đáng chú ý của châu Á là chủ nghĩa khu vực đang tăng lên. Với tổng số 76 hiệp nghị thương nghiệp tự do, khu vực châu Á -. Thanh bình Dương đang dẫn dắt tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, trong bối cảnh Vòng thương thảo Doha không tiến triển. Tôi cho rằng số lượng các FTA và các hình thức kết liên kinh tế khác sẽ đấu tăng. Thí dụ, cùng với tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, chúng ta đã chứng kiến sự xuất hiện từng bước của Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Hiệp định đối tác xuyên yên bình Dương (TPP), Khu vực tự do thương mại Đông Bắc Á, cam kết tăng cường kết liên kinh tế giữa ASEAN và Hoa Kỳ và hợp tác tiểu vùng sông Mekông. Phạm vi các hoạt động trong khuôn khổ ASEM và APEC bây chừ đã mở rộng sang cả các vấn đề phi truyền thống. Một biểu lộ khác cho thấy tầm quan yếu của châu Á, đó là cả thảy các cường quốc chủ chốt hiện thời đang tụ hội vào khu vực. Điều đó là tất yếu, bởi bốn nền kinh tế hàng đầu thế giới, ba thành viên trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và 10 trong số 20 thành viên của G20 đều là các nước châu Á. Thế giới đang quan tâm nhiều nhất đến sự trỗi dậy ngoạn mục của Trung Quốc, chiến lược tái thăng bằng của Mỹ, chính sách Hướng Đông của Ấn Độ và việc Nhật Bản đang dần dần đảm nhiệm một vai trò hăng hái. Nhiều nhà cố vấn hàng đầu đều nhất trí cho rằng đến năm 2030, châu Á - Thái Bình Dương sẽ vượt các đất liền và các khu vực khác về quyền lực, dân số, sản lượng GDP và tiêu xài quân sự. Những đổi thay sâu sắc đó đã đưa đến cả cơ hội và thách thức. Mặc dù các cường quốc mấu chốt vẫn duy trì được khả năng to lớn của họ trong việc kiểm soát các sự kiện trong quan hệ quốc tế, song ảnh hưởng của các cường quốc đang nổi lên là chẳng thể phủ nhận. Kết quả là chính trị quốc tế đã trở thành dân chủ hơn và đa cực hơn. Nhìn lại bối cảnh toàn cầu một thập kỷ trước đây, chúng ta có thể thấy rằng liên hợp Quốc và các tổ chức đa phương hiện đang đóng vai trò quan trọng hơn trong việc duy trì hòa bình, ổn định và an ninh quốc tế. Pháp luật quốc tế hiện đã được coi là điểm tham chiếu cho tất tật các vấn đề toàn cầu. Trong bối cảnh đó, khu vực sẽ có nhiều thời cơ hơn để duy trì hòa bình và ổn định, qua đó bảo đảm được môi trường thuận lợi để phát triển. Và khi đó, một châu Á thịnh vượng sẽ chính là nguyên tố chắp cánh cho sự phát triển kinh tế - tầng lớp ở mỗi nước chúng ta. Tuy nhiên, lịch sử đã chỉ ra rằng bất kỳ sự chuyển dịch quyền lực nào cũng đều dẫn đến mất ổn định ở một mức độ nào đó. Các nước trong khu vực châu Á vẫn đang phải ứng phó với hậu quả của cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan, cũng như những bóng đen còn tiếp diễn của chủ nghĩa khủng bố. Vấn đề bán đảo Triều Tiên vẫn là một điểm nóng. Hàng ngày, chúng ta đang phải đối mặt với những khó khăn kinh tế, chính trị và tầng lớp nội bộ, một phần do tình hình kinh tế đi xuống tạo ra. Các mối đe dọa phi truyền thống với những hình thức như biến đổi khí hậu, mực nước biển dâng cao, thiên tai, an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nước, tù hãm mạng … đang tác động đến cuộc sống của chúng ta. Vấn đề được đặc biệt quan hoài là tranh chấp cương vực giữa các nhà nước, nhất là trên biển Hoa Đông và biển Đông. Những tranh chấp này đang trở nên bao tay hơn do sự cạnh tranh giữa các nước lớn, do những thay đổi trong đích chiến lược, do sự gia tăng chủ nghĩa dân tộc, và do chạy đua vũ trang ở một số vùng trong khu vực. Trong môi trường phức tạp như vậy, thảy chúng ta cùng có lợi. Chung là hòa bình, ổn định, an ninh và tự do hàng hải dọc theo tuyến đường hàng hải quan yếu nối từ Tây sang Đông, từ Địa Trung Hải, vùng Vịnh phê duyệt Ấn Độ Dương, tới Biển Đông và xa hơn nữa đến Thái Bình Dương. Các sự kiện diễn ra trong vài năm qua đã làm phức tạp tình hình biển Đông, một trong những kết liên quan trọng nhất trên tuyến đường hàng hải đó. Tôi tin rằng các bạn ở Ấn Độ cũng đều biết đến các sự kiện đó. Điều tôi muốn nhấn mạnh là biển Đông có ý nghĩa tối quan trọng đối với các giá trị chung của toàn cầu - đó là hòa bình toàn diện, ổn định, an ninh và tự do hàng hải, tự do thương mại và sự thịnh vượng chung cho toàn thế giới. Ước tính rằng hơn ba phần tư thương nghiệp hàng hóa toàn cầu được vận chuyển qua đường biển, và hai phần ba trong số đó đi qua biển Đông. Cuộc sống của tất cả các nhà nước ven biển Đông và tuốt luốt các nền kinh tế lớn trong và ngoài khu vực đều phụ thuộc vào tuyến đường biển này. Vì lý do như vậy, ngoài việc bảo vệ tài sản của mỗi quốc gia, chúng ta còn phải rứa bảo vệ những giá trị chung của toàn cầu này, đó là chủ quyền, kiêm toàn bờ cõi và các lợi ích kinh tế trong lĩnh vực tài nguyên tự nhiên, thủy sản và dầu khí. Tại hội thoại Shangri-La lần thứ 12 vào tháng trước tại Singapore, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã kêu gọi tất tật các nhà nước cùng nhau xây dựng và tăng cường lòng tin chiến lược vì hòa bình, cộng tác và thịnh vượng. Lòng tin chiến lược này phải được dựa trên nhã ý và sự chân thành, dựa trên ý chí tuân luật pháp quốc tế và trách nhiệm của tất thảy các nhà nước, mà trước nhất và quan yếu nhất là các nước lớn. Và hiệu quả của các cơ chế an ninh đa phương phải được tăng cường, trong đó vai trò trung tâm của ASEAN cần phải được trọng. Về vấn đề này, chúng tôi đánh giá cao lập trường của nước Cộng hòa Ấn Độ, cả trên lời nói lẫn việc làm, trong việc duy trì hòa bình và đảm bảo an toàn cho các tuyến đường hàng hải trên vùng biển quốc tế cũng như tại biển Đông. Chúng tôi hoan nghênh tuyên bố mới đây của Ngoại trưởng Salman Khurshid trong cuộc họp với ASEAN tại Brunei trong những ngày qua, khi ông bác bất cứ biện pháp dùng vũ lực nào và ủng hộ tự do hàng hải. Và cuối cùng, thưa các bạn thân mến, như Jawaharlal Nehru đã nói: "Nếu không có hòa bình, quơ những giấc mơ khác đều biến mất và trở nên tro bụi". 2. Cấu trúc khu vực, vai trò của Ấn Độ và ASEAN Thưa quý vị, Câu hỏi thứ hai tôi tự đặt ra là: Chúng ta rẽ sóng theo hướng nào trong vùng nước vô định này? Làm thế nào để chúng ta xây dựng một nền tảng lâu dài cho hòa bình và ổn định, để từ dó chúng ta có thể trở nên thịnh vượng ở châu Á? Tôi cho rằng hòa bình chẳng thể được bảo đảm chỉ bằng các biện pháp quốc phòng. Câu trả lời cho hòa bình có thể nằm chính trong mạng lưới ngày một mở mang giữa các nước, trong sự kết nối và kết liên tổng thể giữa các nhà nước về kinh tế, thương mại, chính trị, an ninh, văn hóa và xã hội. Chúng ta phải làm như vậy không chỉ giữa các nhà nước, mà còn ở các cấp độ khác nhau: giữa các tiểu vùng, trong khu vực và liên khu vực. Thông qua sự hội nhập sâu sắc này, chúng ta có thể tạo ra các lợi. Đan xen, gắn kết nhiều người chơi, tăng cường việc thực thi các quy định và chuẩn mực, và giảm thiểu các xung đột tiềm ẩn. Với nghĩ suy như vậy, tôi cho rằng chúng ta nên có một cái nhìn rộng hơn bao giờ hết, rằng châu Á - thái hoà Dương và Nam Á đang được kết liên với nhau trong cái gọi là Ấn Độ - yên bình Dương. Giờ đã có nhiều đề xuất, ý tưởng, khái niệm và sáng kiến xúc tiến mối kết liên giữa Nam Á với Đông Á và Thái Bình Dương. Điều này đề đạt một thực tại rằng tuốt chúng ta san sớt sự thịnh vượng chung, rằng mệnh của chúng ta đã gắn kết với nhau. Và ASEAN đóng vai trò quan yếu làm cầu nối giữa các khu vực của chúng ta, là ngưỡng cửa để Ấn Độ bước sang châu Á - thái hoà Dương. Như các bạn đã biết, những dàn xếp đa phương bây chừ trong khu vực châu Á - thái hoà Dương không hoàn toàn hữu hiệu trong việc ngăn ngừa và xử lý xung đột, cũng như chơi giải quyết thỏa đáng các vấn đề an ninh phi truyền thống, thí dụ như dịch SARS bùng phát năm 2003, các thảm họa sóng thần ở Ấn Độ Dương năm 2004 và ở Nhật Bản năm 2011. Vì vậy, nhiều người đang kỳ vọng sự phát triển của cấu trúc khu vực sẽ là một trong những bước hướng tới giải quyết các thách thức và hiện thực hóa khái niệm Ấn Độ-yên bình Dương. Theo đó, ASEAN đóng vai trò quan yếu làm cầu nối kết liên chủ nghĩa khu vực. Hiệp hội có thể duy trì sự phát triển năng động của một cộng đồng kinh tế với 600 triệu người tiêu dùng và tổng sản lượng GDP là 2.100 tỷ USD. Ngoài việc là trọng tâm của hầu hết các Hiệp định tự do thương mại (FTA) song phương và ở cấp khu vực, ASEAN còn là trung tâm của các cơ chế và phương tiện để bảo đảm hòa bình và an ninh. Tôi có thể kể đến Hiệp ước thân thiện và hợp tác (TAC), Tuyên bố về khu vực ASEAN không có khí giới hạt nhân (SEANWFZ), Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN+. Các cuộc gặp mặt hàng năm của ASEAN đã đề ra cương lĩnh chiến lược để bít tất các nước trong khu vực bắt tay cùng nhau, xử lý các xung đột tiềm tàng và xúc tiến kết liên khu vực. Cho đến nay, ASEAN đã có thể duy trì được sự thăng bằng năng động trong việc xúc tiến quan hệ với các đối tác hội thoại. Trong những năm sắp tới, các ưu tiên của ASEAN bao gồm: thực hiện Lộ trình hướng tới thành lập Cộng đồng vào cuối năm 2015, gia tăng kết nối và thu hẹp khoảng cách phát triển, đảm bảo phát triển bền vững và toàn diện. Tuy nhiên, nhìn xa hơn tới sau năm 2015, ASEAN sẽ phải chủ động hơn trong việc tăng cường vai trò trung tâm của chúng tôi trong cấu trúc khu vực đang hình thành. Chúng tôi sẽ phải đóng vai trò đi đầu trong việc giải quyết những thách thức cấp bách nhất của khu vực, các vấn đề an ninh cả truyền thống và phi truyền thống. Để thực hiện những mục tiêu này, ASEAN sẽ đẩy mạnh giao lưu tương tác với các đối tác hội thoại, khuyến khích họ liên quan sâu hơn với chúng tôi và hành động chung với chúng tôi nhằm đạt tới mục tiêu chung đã được đề cập, đó là hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực. Về vấn đề này, ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng luôn luôn coi trọng Ấn Độ và xem Ấn Độ là một đối tác quan yếu. Với kích tấc địa lý, tiềm lực kinh tế và tinh thần sẵn sàng đảm đương vai trò lớn hơn trên trường quốc tế, Ấn Độ vốn đã là một thực thể lớn ở Ấn Độ - thái hoà Dương. Về mặt kinh tế, với vai trò trọng tâm và đầu tàu kinh tế, Ấn Độ có ảnh hưởng khá lớn. Dân số Ấn Độ với sức trẻ khi số dân trong độ tuổi cần lao chiếm tỷ lệ cao nhất ở khu vực châu Á sẽ đưa giang san trở thành một trọng điểm sáng tạo của Công nghệ thông tin. Ấn Độ có thể đóng góp vào sự tăng trưởng của khu vực phê duyệt màng lưới càng ngày càng tăng các FTA và PTA với các nước ASEAN và các nước khác, cũng như duyệt dòng đầu tư 2 chiều càng ngày càng tăng của Ấn Độ với phần còn lại của châu Á. Về mặt chiến lược, Ấn Độ sở hữu một vị trí địa chính trị trải dài trên cả đất liền và đại dương giữa Đông và Tây. Là thành viên sáng lập và lãnh đạo Phong trào Không kết liên, Ấn Độ có uy tín cao và vai trò lớn trong thế giới đang phát triển. Ấn Độ và các mối quan hệ giữa Ấn Độ với các cường quốc khác từ lâu đã là một phần của cấu trúc an ninh khu vực. Quan yếu hơn, Ấn Độ đang chứng tỏ khả năng đứng vào hàng ngũ các nước lãnh đạo có tầm quan trọng và ảnh hưởng toàn cầu. Trong hai thập kỷ qua, với chính sách hướng Đông, Ấn Độ đã đóng vai trò mang tính xây dựng phê chuẩn cộng tác kinh tế và các sáng kiến về an ninh. Việc thành lập Quan hệ đối tác chiến lược ASEAN - Ấn Độ vì hòa bình và thịnh vượng chung năm 2012 đã đưa sự hiệp tác giữa chúng ta lên một tầm cao mới. Sự hiện diện của Ấn Độ ở Đông Nam Á trở nên rõ nét hơn trong nhiều lĩnh vực: hợp tác chính trị, kinh tế, thương nghiệp, quốc phòng, và năng lượng. Chỉ nhìn vào các số liệu thống kê thôi cũng đã thấy rất ấn tượng. Hiệp định thương nghiệp tự do về hàng hóa giữa Ấn Độ và ASEAN đã tạo ra mối kết liên giữa hai thị trường đồ sộ với 1,8 tỷ USD người tiêu dùng và có tổng sản lượng GDP đạt 3 nghìn tỷ USD. Kim ngạch thương mại song phương giữa Ấn Độ và ASEAN đạt mức 80 tỷ USD vào năm 2012. Tuy nhiên, giữa ASEAN và Ấn Độ vẫn còn những tiềm năng hợp tác cần được phát huy và phá hoang hơn nữa. Chúng ta cần phải phối hợp với nhau chặt chẽ hơn trong các sáng kiến liên khu vực. Chúng ta cần phải chung sức trong các đề án liên kết tiểu vùng của chúng ta như Sáng kiến Sông Mekong-Sông Hằng, hay liên kết giữa ASEAN và Hiệp hội cộng tác khu vực Nam Á (SAARC). Có những lĩnh vực mà Ấn Độ có thể viện trợ ASEAN một cách có ý nghĩa, chẳng hạn như hiệp tác ở khu vực hạ lưu sông Mekong, cơ chế mà Nhật Bản, Mỹ và Hàn Quốc là các bên tham gia, cũng như các sáng kiến kết nối cơ sở hạ tầng, vận tải trên đất liền và trên biển. ASEAN chúng tôi thấy rằng các ích lợi của Ấn Độ trong khu vực Đông Nam Á đã tăng mạnh trong những năm gần đây. Tôi hoan nghênh việc thành lập Ban điều phối kết nối ASEAN - Ấn Độ tại cuộc họp giữa các bộ trưởng mười ngày trước đây. Trọng điểm ASEAN - Ấn Độ cũng vừa được thành lập. Đó chỉ là số ít trong những sáng kiến mới được đưa ra. Tóm lại, ASEAN chúng tôi hoan nghênh cam kết và sự liên quan của Ấn Độ với ASEAN chuẩn y các biện pháp cụ thể. Bít tất chúng tôi đều muốn thấy sự hiện diện nhiều hơn của Ấn Độ ở Đông Nam Á, không chỉ trong lĩnh vực chính trị mà cả trong lĩnh vực kinh tế. Là một thành viên có bổn phận và chủ động của ASEAN, Việt Nam sẵn sàng đi đầu trong sự cộng tác giữa Hiệp hội với Ấn Độ. Với sự hăng hái hơn nữa của Ấn Độ trong cộng tác với ASEAN, chúng ta có thể mơ về một khu vực Ấn Độ-thái hoà Dương rộng lớn với những mối kết liên mạnh mẽ, sự kết nối có hiệu quả và hơn thảy là sự thịnh vượng và hòa bình chung. 3.Quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Ấn Độ trong môi trường khu vực đang thay đổi Chủ đề này dẫn dắt tôi tới câu hỏi thứ ba: Chúng ta, Việt Nam và Ấn Độ, cùng nhau làm gì trong môi trường đang thay đổi hiện giờ? Việt Nam và Ấn Độ đều quý trọng những mối giao lưu có lịch sử lâu đời giữa hai nước. Nền văn minh Ấn Độ đã để lại những dấu ấn hữu hình và vô hình trong nền văn hóa Việt Nam. Đặc điểm đáng để ý về quá trình giao lưu được nuôi dưỡng qua thời kì giữa hai nước chúng ta, đó là mối giao lưu diễn ra hoàn toàn hòa bình. Kể từ khi nước Việt Nam hiện đại thành lập năm 1945, chúng tôi luôn có Ấn Độ là người bạn thủy chung. Và tôi tin rằng các bạn cũng thấy Việt Nam luôn là người bạn thủy chung của Ấn Độ. Sự tin tưởng.# Lẫn nhau được thẳng băng nuôi dưỡng giữa hai nước chúng ta qua bao năm tháng là di sản quý giá nhất mà chúng ta có được. Sự tin cậy chính là nhân tố đã góp phần củng cố tình hữu nghị truyền thống của chúng ta, vượt qua những biến cố. Đây là di sản của mối quan hệ song phương mà chúng ta phải bảo vệ. Và tôi chắc rằng đây cũng là điều mà cố Chủ tịch Hồ Chí Minh và cố Thủ tướng Nehru đã nuôi dưỡng và hướng tới. Trên cơ sở sự tin tưởng lẫn nhau, những giá trị chung và những lợi ích chiến lược cùng san sớt, mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Ấn Độ đã được thiết lập năm 2007 và không ngừng phát triển từ đó đến nay. Trong bối cảnh những thách thức không hề giảm bớt, chúng ta cần sát cánh bên nhau để giải quyết những vấn đề chính trị và kinh tế mà những đổi thay trong bối cảnh khu vực đang đặt ra. Sự kết hợp giữa Chính sách hướng Đông của Ấn Độ và chính sách đối ngoại với trọng điểm hội nhập toàn diện của Việt Nam đã tạo cho chúng ta nhiều không gian để cùng nhau hành động. Chúng ta cũng cần phải chung sức nhằm hiện thực hóa tiềm năng to lớn của mối quan hệ song phương giữa chúng ta, nhằm tạo cơ sở kiên cố hơn cho mối quan hệ đối tác giữa hai nước. Tuyên bố thiết lập quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Ấn Độ năm 2007 đã nêu rõ 5 cột trụ hiệp tác, bao gồm hợp tác chính trị, hiệp tác quốc phòng và an ninh, hiệp tác kinh tế, gắn kết thương nghiệp, tăng cường buôn bán và đầu tư, cộng tác khoa học và công nghệ, hiệp tác văn hóa - kỹ thuật, và cộng tác tại các diễn đàn đa phương và khu vực. Trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Ấn Độ năm 2011, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và các nhà lãnh đạo Ấn Độ đã đạt thỏa thuận về những bước đi và mục tiêu cụ thể hơn mà hai bên có thể triển khai. Trong đó, các nhà lãnh đạo đã nhất trí rằng hai nước cần đạt kim ngạch thương mại hai chiều 7 tỷ USD vào năm 2015. Cuối năm 2012, chúng ta đã chấm dứt thành công Năm hữu hảo Việt Nam - Ấn Độ. Gắng của cả hai bên trong năm vừa qua đã đưa đến những thành tựu quan yếu, tạo cơ sở kiên cố để quan hệ giữa hai nước tiến xa hơn trong những năm tới. Năm 2013 đã chứng kiến những cố gắng to lớn hơn nhằm củng cố những gì chúng ta đã đạt được trong năm trước. Tuần trước, ngài Kapil Sibal, Bộ trưởng Công nghệ thông báo và Truyền thông Ấn Độ đã thăm Việt Nam và đã đạt được một số thỏa thuận với người đồng nhiệm Việt Nam. Trong những năm tới, Việt Nam tuyển lựa công nghệ thông tin làm nền móng cho mô hình phát triển mới. Chúng tôi hướng về Ấn Độ, một trọng tâm công nghệ thông báo hàng đầu của thế giới, để được trợ giúp và ủng hộ. Tôi hoàn toàn tán đồng với đề xuất của Bộ trưởng Sibal rằng Việt Nam và Ấn Độ nên lập ra những liên doanh về công nghệ thông báo, tận dụng tối đa lợi thế về phần mềm của Ấn Độ và các sản phẩm phần cứng của Việt Nam. Chuyến thăm tới Cộng hòa Ấn Độ lần này của tôi là để cùng với đồng nghiệp của tôi, ngài Salman Khurshid, Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ, đồng chủ trì phiên họp lần thứ 15 của Ủy ban hỗn tạp Việt Nam - Ấn Độ. Ngày hôm qua, Bộ trưởng Khurshid đã cùng tôi bàn thảo những cách thức nhằm hiện thực hóa nhiều mục tiêu giữa hai nước chúng ta. Chúng tôi cho rằng Việt Nam có thể tạo ra rất nhiều dịp thương nghiệp và đầu tư cho Ấn Độ. Chúng tôi ủng hộ các doanh nghiệp Ấn Độ trong việc khai phá thêm nhịp đầu tư trong lĩnh vực khai khẩn dầu khí, điện, khoa học, công nghệ và nông nghiệp. Một tỉ dụ tiêu biểu là Tập đoàn năng lượng Tata vừa thắng gói thầu hợp đồng trị giá 1,8 tỷ USD để xây dựng nhà máy nhiệt điện Long Phú 2 tại tỉnh Sóc Trăng, qua đó đưa Ấn Độ từ hàng thứ 40 lên hàng 12 trong danh sách các nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam. Đây chỉ là rất ít những thí dụ về rứa của chúng ta trong thời kì qua. Càng tự hào về tình hữu nghị lâu đời giữa chúng ta bao nhiêu tôi càng lạc quan bấy nhiêu về triển vọng quan hệ giữa hai nước. Tiềm năng là có, và rất to lớn. Vấn đề là chúng ta phải đấu cùng nhau hành động không mệt mỏi để nắm bắt được những cơ hội hợp tác. Thưa các Quý vị, Tôi xin chấm dứt bài phát biểu bằng lời cảm ơn sâu sắc của tôi đối với tuốt luốt các quý vị, những học giả và quan chức thuộc Hội đồng đối ngoại Ấn Độ. Các quý vị hãy tin tưởng.# Rằng từ Việt Nam, chúng tôi vẫn theo sát những công trình nghiên cứu, những cuộc tranh luận và những khuyến nghị chính sách của các bạn. Chúng tôi đánh giá cao ý kiến của các bạn về tình hình thế giới, khu vực cũng như về mối quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước chúng ta. Xin kính chúc Đại sứ Rajiv Bhatia và toàn thể các quý vị sức khỏe, hạnh phúc và thịnh vượng. Một lần nữa, xin trân trọng cảm ơn! (TG&VN) |
Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2013
Tăng cường gắn kết Việt Nam - Ấn Độ vì hòa bình và thịnh vượng ở Ấn Độ-Thái Bình Dương
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét