Thứ Hai, 23 tháng 9, 2013

Cái đội liên tục đầu.

Trót lấm bẩn chỉ dùng phấn trắng xóa đi. Thật may, các nữ chiến sĩ phóng thích quân và thanh niên xung phong lúc ấy được phát những bộ quân phục chiến trận Dân tộc giải phóng miền Nam. Nụ cười sáng rực của chị Nguyễn Thị Định, chị Kan Lịch dưới vành mũ tai bèo đã chứng minh được vẹn tròn niềm kiêu hãnh và vẻ đẹp của phụ nữ đội mũ.

Được ít lâu cũng phát chán. Đàn bà lúc ấy đội mũ ra đường không ai khen đẹp mà người ta chỉ hỏi nhỏ vào tai nhau rằng “Chị ấy có làm sao không?”.

Họa sĩ Nguyễn Sáng suốt đời gắn bó với chiếc mũ vải lưỡi trai màu cỏ úa chỉ trừ lúc đi ngủ. Hiếm hoi lắm mới có một người đủ gan dạ đội chiếc mũ len đan tay ra đường.

Nhưng độ mềm mại nhu nhược đến mức ẻo lả của nó khó lòng vượt qua vòng “gửi xe”. Lúc ấy nữ giới chỉ có hai thứ mũ để đội. Cả hai thứ ấy đều được nhà nước phát. Cũng chỉ ở thành phố mới có. Đến một lúc nào đó ô tô thay thế thảy xe máy thì nghề sản xuất mũ sẽ lại phục hưng. Sau đó là nón mê cho những người làm đồng. Thứ y phục đã từng lân la xếp hàng vào cuộc thi tìm quốc phục.

Đàn ông mũ nồi (beret), mũ lưỡi trai dài, mũ cát-két (casquettes), mũ phớt, mũ lá, mũ nan, mũ cối theo những trào lưu nở rộ từng thời kỳ.

Mũ cối của tự vệ sao vuông Hà Nội và mũ công nhân vải xanh chéo sĩ lâm lưỡi trai nhựa đen. Mai sau của nghề mũ không hoàn toàn tối tăm. Đơn giản vì xe máy là phương tiện chiếm số đông ở thành phố. Vài người không đội mũ bảo hiểm có thể bị truy đuổi như tầy.

ĐỖ PHẤN. Xem video an ninh ở các cửa hàng, công sở thì thấy. Những mũ khác vẫn bị coi là thành phần ăn chơi gái giang hồ đáng ngại và cũng có chút thần kinh lãng đãng mây trời.

Mọi người đi xe máy trên đường thắt phải đội mũ bảo hiểm. Nghệ sĩ performance Đào Anh Khánh đội chiếc mũ phớt thổ dân hàng xịn mang từ Mỹ về. Cho đến khi công văn 407/CP-CN của Chính phủ ra đời ngày 15-5-2001.

Mũ công nhân nữ có chỏm rộng đủ để đựng cả mớ tóc dài búi gọn.

Đám học hành khoa cử có khăn đóng áo the và chiếc ô lục soạn như trang phục của hào lý lúc bấy giờ.

Nhưng lũ trộm cắp luôn đội mũ bảo hiểm trước khi lấy trộm xe máy. Nhưng phải hạn chế giặt.

Các hãng mũ thời trang đóng cửa hàng loạt nhường chỗ cho thị trường mũ bảo hiểm. Nhưng cái làm anh giống với một thổ dân chưa bao giờ là chiếc mũ ấy. Rất buồn cười là trước năm 1975 cả miền Bắc gần như không có nữ giới nào đội mũ để làm đẹp. Đi cùng với trang phục tây bao giờ cũng có những chiếc mũ cát (casque) bằng gỗ dút (hoặc lìege) lợp vải trắng. Nhẹ và rộng vành che nắng rất tốt.

Các công tử nhà giàu hoặc viên chức tay chơi có chiếc mũ phớt dạ nhập nội. Người Việt có khả năng chế tác ra mọi loại mũ, chỉ trừ mũ phớt dạ vẫn phải nhập cho đến tận bây chừ.

Ông không tự tín lắm với vầng trán cao đầy tư lự của mình? Trái ngược hẳn với một nhà phê bình mỹ thuật lớp đàn em luôn bắt thợ cắt tóc cạo lẹm sâu vào chân tóc trước trán và không bao giờ đội mũ.

Chỉ có điều không ai mường tượng ra nổi thứ đội trên đầu lúc ấy sẽ có hình ảnh như thế nào. Một thứ nhất thiết là chiếc khăn vấn. Mũ của đàn ông phong phú lên rất nhiều từ thời Pháp thuộc ở các đô thị lớn. Cái nón lá cọ dần biến mất ở tỉnh thành. Trừ quan liêu chức sắc triều đình có mũ áo vua ban theo phẩm cấp, đàn ông xứ Bắc xưa có hai thứ để đội trên đầu.

Chiếc mũ vải tai bèo màu xanh lính là điểm nhấn dị biệt của bộ binh phục ấy.

Phụ nữ e ấp dưới vành mũ nan, mũ cói theo phim Tiếng chim hót trong bụi mận gai, Trở lại Eden. Họ chỉ mặc những thứ ấy khi “bà Tưng” có yêu cầu. Nhạc sĩ Nguyễn Cường, một cao bồi Hàng Bạc - Hà Nội vẫn đội mũ phớt da thổ dân lên sàn diễn vào các tối trình diễn hẳn là không phải để che nắng. Sau giải phóng Sài Gòn mọi người đều đội mũ. Giờ thì mũ bảo hiểm cai trị khắp phố phường.

Các hãng sản xuất mũ trong nước và những nhà du nhập phát tài trong suốt 26 năm liền. Vài người nhiêu khê y phục còn cố kỉnh đem theo trên xe máy chiếc mũ vải mềm để đội mỗi lúc xuống xe. Mũ phớt có ý tức là thời trang nhiều hơn công dụng của nó. Đàn ông Việt giờ khác xa rồi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét